CẦN GIÚP ĐỠ BÂY GIỜ XIN ĐỪNG ĐỢI NGÀY MAI!
Sau khi nhận 10 bức thư cầu cứu gửi cho Cố Tổng Hội Phó Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Phan Văn Phúc và Khu Hội Tù Nhân Chính Trị Dallas qua cô Tâm của Hồng Phát Gift Shop trong Cali Saigon mall. Chúng tôi được sự hỗ trợ của, hai em Hưng-Nancy (Đoàn Tofu), chị Phạm Thị Tùng, chị Hoàng Thị Mừng, ông Vương Thế Hỷ, Bà Chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hạt Tarrant đã chuyển tiền về giúp đỡ và các Thương phế binh (TPB) này đã hồi báo nhận được tiền…
Thương Phế Binh Trần Văn Nô nhận tiền từ chị Phạm thị Tùng và chị Hoàng Thị Mừng
Công tác bất đắc dĩ thay thế ông Phan văn Phúc đã qua đời và Khu Hội Tù Nhân Chính Trị Dallas không còn hoạt động vừa hoàn tất thì nhận lời nhắn của chị Lê Thị Hạnh, nguyên trước đây là thành viên quản trị Cộng đồng Người Việt Quốc Gia Dallas, cũng là người thường xuyên giúp đỡ nhiều năm nay các Thương Phế Binh ở quê nhà lại tiếp tục cầu cứu: “Anh Lộc ơi! Tôi chỉ giúp những ông TPB/VNCH bị mất hai chân, mù hai mắt, cụt hai tay phải ở nhà trọ. Những người này hoàn toàn chưa nhận bất cứ sự hỗ trợ nào từ Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh/SBTN hay tổ chức cựu quân nhân nào hết. Một mình tôi từ bấy lâu nay nhịn chút tiền hưu. Tháng này tôi gửi quà và tiền giúp khoảng 10 ông, tháng sau giúp 10 ông khác. Mỗi ông $500,000 Việt nam và thức ăn. Bây giờ tôi định chỉ gửi về cho các ông TPB/VNCH ở miền Trung vì đa số các ông có nhà, có đất chỉ một số thương tật nặng:
-1.- Huỳnh Văn Bé (Cụt chân ở nhà trọ): 314/75A Âu Dương Lân, P. 3, HCM/VN
-2.- Trần Văn No (Mù 2 mắt, cụt 2 tay, ở nhà trọ): Khu phố 1-Chợ Lách, Bến Tre.
-3.-Nguyễn văn Ru (Mù 2 mắt, cụt 2 tay) Ấp Hoà Quới, xã Bình Minh, Huyện Chợ Gạo, Tiền Giang.
-4.-Nguyễn Văn Quang (Cụt 2 chân, ở nhà trọ) Ấp Quy Phước, xã Nhị Quý, thị xã Cai Lậy, Tiền Giang
-5.-Trần Văn Tư (Mù 2 mắt) Ấp An Thành, xã Trung Hiếu, huyện Vĩnh Liêm, Vĩnh Long
-6.- Nguyễn Văn Thanh (Cụt 2 chân) Ấp 4, khu Tái định cư Vĩnh Tân, Thị xã tân Uyên, Bình Dương.
-7.- Lê Thái Thuận (Cụt 2 chân , mù 1 mắt, cụt 4 ngón tay) 27/1E khu phố 9, Phường Hiệp Bình Chánh, Thủ Đức.
-8.-Phạm văn Chính (Cụt 2 chân) Khu phố 5, Quốc lộ 13, Phường Hiệp Bình Phước, Thủ Đức.
-9.- Lê Văn Năm (Cụt 2 chân) 25B đường Hoàng Hoa Thám, Phường 3, Vũng Tàu
-10.- Nguyễn Văn Toàn (bị liệt nằm một chỗ)51/53/23 Võ Văn Kiệt, phường Khánh Xuân, TP Buôn Mê Thuột, Đắc Lắc.
-11.-Nguyễn Xách: Khu phố 6, Tân Mai, Biên Hoà, Đồng Nai
-12.- Trần Ngọc Hùng (Cụt 2 chân) – Hẻm 84/1, đường 11, khu phố 9, phường Trường Thọ, Thủ Đức.
Danh sách 12 người, chúng tôi đã gửi được được 6 người. Sau đó, chị Hạnh lại nhắn cho biết trường hợp anh Trần Văn Nở đã mù, thêm vợ đi bán vé số bị tai nạn và chúng tôi đã nhận thêm chị Phạm Thị Tùng $100.00 và chị Hoàng Thị Mừng $50.00 để gửi cho gia đình anh Trần Văn Nở ở Chợ Lách, Bến Tre… Chúng tôi sẽ tiếp tục số anh em còn lại khi có thể.
Chúng tôi không muốn nói lên hai chữ “cầu cứu” vì chúng tôi biết đó là định mệnh đối với họ, những kiếp trai thời loạn phải gánh chịu, theo vòng đời nổi trôi của dòng sông lịch sử, dù vô lý, dù hờn căm, dù bất công thương hận mà các chiến hữu đang sống ở đây hiểu được điều đó hơn ai hết. Chúng ta không giúp đỡ họ bây giờ thì có thể biện minh cho điều gì, hoặc mong ước làm chuyện gì lớn hơn!
Mất nước nhà tan, nguời lính sống sót sau cuộc chiến, rã ngũ tan hàng đầu sông cuối bể, tha phương thì dần chết trong men đời cay đắng, còn tù ngục chịu cảnh nhục hờn. Nhưng tất cả giờ cũng đả đi hết rồi, chỉ còn ở đây là những thương phế binh xa củ, những hồn ma cô quạnh , sống với quá khứ liệt oanh, qua những vết thương đời không hề hối hận :
‘ Di tản khó, sâu dòi lúc nhúc
trong vết thương người bạn nín rên
người chết mấy ngày không lấy xác
thây sình mặt nát, lạch mương tanh..’
( Tô Thuỳ Yên)
Ta thán phục, ta hãnh diện biết bao, khi đọc được những trang sử ũủ. Sẽ vui cười hớn hở cùng với tiền nhân qua những lần bình Chiêm, phá Bắc, đuổi giặc Mông trên sông Bạch Đằng, đốt tàu Pháp tại Vàm Nhật Tảo. Không biết những trang quân vương dũng tướng thời xưa, hành sử thế nào mà muôn người như một, khiến cho người trong nước, gia trẻ lớn bé, đều nguyện một lòng giết giặc cứu nước tại Hội Nghi Diên Hồng. Sau này mới vở lẽ, thì ra đó là tinh thần trách nhiệm, cũng như bổn phân của kẽ sỉ thời tao loạn. Hay đúng hơn, đó là đức tính cao quí của thanh niên-sĩ phu, dù họ chỉ là những người bình dân ít học.
‘ Tôi không là tôi nữa,
từ khi được xuất ngủ
có quạ đen đậu trên đấu
có bao nhiêu đợi chờ đau khổ..’
Thanh niên VN thời nào cũng vậy, tất cả đều đặt trách nhiệm làm trai trên hết, nên chúng ta ngày nay mới còn có đất nước, để mà vui sướng, đau khổ. Hỡi ơi, có làm lính mới hiểu phận bèo của lính, có là thương phế binh, sau khi được xuât ngủ, mới thấm thía được nỗi buồn của một kẻ tàn tật, mất tất cả, ngoài người mẹ già, từ quê xa, đang đợi con trở về. Thê thiết quá cũng như đau đớn tột cùng, kiếp lính chiều tàn là thế. Sự thật là vậy , có khi còn đau đớn trăm chiều. Ai đã tùng thấy chưa, cảnh vợ lính hay người yêu , chỉ một lần vào thăm người thân nơi quân y viện, rồi chẳng bao giờ quay lại, ngoài những giọt lệ cá sấu, vô tình còn vương vãi đó đây. Ai có một lần ngược xuôi trên các nẻo đường thiên lý, tình cờ hội ngộ những chàng trai tàn tật còn rất trẻ, những người mù, què, mặt mày in đầy thương-sẹo bởi đạn bom, đang lần mò ngửa tay chờ bố thí của mọi người. Họ là lính chiến của một thời oanh liệt, là thương phế binh QLVNCH đó, họ đau khổ mang thương tật không phải do bẩm sinh, mà vì đời, vì người gánh chịu.
Rồi thì hằng loại Làng Phế binh, lần lượt ra đời tại quận cũng như thị xã. Riêng những phế binh đã có nhà, không muốn vào Làng, dược trợ cấp một ngân khoản 60.000 đồng. Tất cả các làng trên, đều bị VC cướp giựt sau ngày 30-4-1975.
Làm người bình thường , sống trong thời loạn, đã phải khốn khổ vì miếng cơm manh áo, huống chi phận lính nghèo, lãnh đồng lương chết đói, vậy mà còn bị trí thức nguyền rủa, là lính đánh thuê cho Mỹ..
‘ Giọt mưa trên lá, nước mắt mặn mà
thiếu nữ mừng vì tan chiến tranh chồng về
mẹ lần mò, ra trước ao, nắm áo ngưởi xưa, ngỡ trong giấc mơ
tiếc rằng ta, đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ..’
(Phạm Duy).
Nhưng chiến tranh chứa dứt và vẫn còn khốc liệt, nhưng người xưa nay đã thành tàn phế, vô dụng, lê lết đời tan xuân héo, lần mò trở về làng xưa,với những kẻ thân yêu, mong chút tình thân đùm bọc.
Ai có cảm thông chăng người lính mù trẻ tuổi vì đạn B40, lần mò trên chiếc xe lăn, quanh bến phà, bến xe, miệng hát tay đờn kiếm sống ? Có thương không những người lính trận, bán thân bất toại, lê lết khắp các nẻo đường phố thị, để bán vé số, sách báo, đắp đổi qua ngày. Và còn nửa, còn trăm ngàn thảm kịch của tuổi thanh niên thời loạn, chân gỗ tay nạng, mắt mũi vàng khè, khô nám, luôn đau đớn bởi những hậu chứng, sau khi giải phẫu. Nhưng họ vẫn lao động để sinh tồn, đi biển, làm nông, lết lê trên ruộng trên sóng, đội nắng tấm mưa. Kiếp sống phận bèo của người phế binh là thế đó, nên phải chiếm đất cắm dùi, cũng là chuyện bình thường
Cuộc đổi đời nay đã xa lắc nhưng mỗi lần nhớ cứ tưởng mới hôm qua hôm nay. 50 năm rồi ta còn sống tự do, hạnh phúc nơi xứ người. Trong lúc đó nơi quê nhà ngàn trùng xa cách, những người phế binh năm nào, không biết nay ai còn ai mất. Nhưng chắc chắn một điều, dù họ có sống hay đã chết, thì hận nhục, thương đau cũng đâu có khác gì, đặc biệt là cac TPB/VNCH.
- Xin hãy thương lấy ho, hãy cứu vớt họ đang trôi nổi trong ngục tù nghiệt ngả.
- Phế binh cũng là một phần của tập thể cựu quân nhân hải ngoại.
- Hãy rớt một chút ân thừa cho những thây người còn sống sót trong bể hận trầm luân.
- Hãy cho họ một chút tình thương trong cơn hấp hối. HỌ CẦN GIÚP ĐỠ BÂY GIỜ XIN ĐỪNG ĐỢI NGÀY MAI!
Thái Hóa Lộc