TƯỞNG NIỆM 50 NĂM QUỐC HẬN
Hỡi Toàn Dân Việt Yêu Nước Hãy Biến Đau Thương Thành Sức Mạnh - Thời Cơ Đến Rồi ...
Ngô Viết Quyền
TỔNG QUAN
50 năm sau biến cố 30/4/1975 đã xảy ra cho nước Việt Nam Cộng Hòa. Đây thực chất là "Ngày Quốc Hận"– một dấu mốc đau thương trong lịch sử Việt Nam đối với toàn dân Việt ở cả hai miền Nam-Bắc. Tác giả luôn suy niệm: “Vô Dược Khả Y Ưu Quốc Bệnh - Hữu Quan Nan Trở Mộng Gia Hồi”. Diễn giải: “không có phương thuốc hoặc bác sĩ nào chữa được căn bệnh yêu nước – Cũng không cửa ải nào ngăn cản được ước vọng trở về quê Mẹ Việt Nam”. Đây cũng là chủ đích mà tác giả muốn bày tỏ; hầu giúp thế hệ trẻ Việt Nam hiểu rõ lịch sử đích thực như nó là về mọi sự việc từ khách quan tới chủ quan. Bởi vì người đời sau đọc sử, học sử, hiểu sử và thông sử; rồi mới đủ tư cách bàn bạc hay thảo luận về sử được. Mục tiêu là để thế hệ trẻ tự mình rút ra được những bài học sử một cách thông thoáng và bổ ích cho trí tuệ; để thành người (become man) và chủ động tham gia vào công cuộc đấu tranh cho Cách mạng Tự do, Cách mạng Dân chủ và Cách mạng Nhân quyền – những giá trị cốt lõi cho tương lai của dân tộc Việt Nam.
1)- NGÀY 30.4.1975 PHẢI LÀ NGÀY QUỐC HẬN:
Mọi người dân Việt Nam chân chánh ở trong nước và hải ngoại cùng phải coi ngày 30/4/1975 là "Ngày Quốc Hận"– biểu tượng cho nỗi đau của cả dân tộc Việt Nam, không chỉ riêng miền Nam; mà cả hai miền Nam-Bắc. Chúng ta cũng nên hiểu: đây là thời khắc đánh dấu sự bắt đầu của một chế độ độc tài, áp bức dưới sự lãnh đạo của Đảng Việt Gian Cộng sản Hà Nội, với sự dối trá và đàn áp toàn dân qua công an trị. Đồng thời cáo buộc nhà cầm quyền cộng sản đã xóa bỏ quyền tự quyết của người miền Nam, dắt dân tộc vào sự lệ thuộc Trung Quốc và để mất lãnh thổ, biển đảo. Từ sau 1975 đến nay, xét cho cùng, đất nước và dân tộc Việt Nam không hề nhận được bất kỳ lợi ích nào từ cuộc chiến tranh, mà chỉ là đau thương, mất mát, thống hận và sự suy yếu toàn diện về cả vật chất lẫn tinh thần.
Người dân Việt trong nước và hải ngoại cùng một quan điểm chỉ trích mạnh mẽ nhà cầm quyền Việt Gian Cộng Sản Hà Nội, đặc biệt là vai trò của Lê Duẩn trong việc đặt quyền lợi dân tộc dưới sự phục tùng các cường quốc cộng sản như Liên Sô và Trung Quốc. Tác giả trích lời tuyên bố ô nhục của Lê Duẩn: “Ta đánh Mỹ ngụy là đánh cho Liên Sô và Trung Cộng” như minh chứng cho việc chiến tranh không xuất phát từ quyền lợi dân tộc. Ngoài ra, toàn dân hãy cáo buộc nhà cầm quyền Việt Gian Cộng Sản Hà Nội đã nhiều lần nhượng đất, nhượng biển cho Trung Quốc qua các hành động như: ký Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng, nhượng Hoàng Sa – Trường Sa, Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan (liên quan đến Hiệp ước Thành Đô). Tác giả lo ngại rằng sự hiện diện đông đảo, trá hình và độc lập trong các làng Tàu (China Villages) của người Trung Quốc tại các khu vực trọng yếu như ngay tại Phố Cổ Hà Nội và Đà Nẵng, Nha Trang, Quảng Ninh, Phú Quốc etc. Đây là dấu hiệu cho thấy Việt Nam có nguy cơ trở thành một tỉnh của Trung Quốc trong tương lai sẽ không còn ai coi là chuyện bất ngờ nữa.
Xét về tình trạng bất công xã hội tạo ra khoảng cách giàu nghèo quá xa. Trong khi hơn 100 Ủy viên Trung ương Đảng so với 100 triệu dân; để thấy rõ các cán bộ trung-cao cấp sở hữu khối tài sản chìm-nổi khổng lồ (hàng trăm triệu USD) từ việc vơ vét của dân, thì đại đa số người dân Việt Nam phải sống trong nghèo khổ, đặc biệt ở nông thôn phải chạy ăn từng bữa. Nạn tham nhũng tại Việt Nam hiện nay thấy rõ ở mọi tầng cấp và quá lộ liễu giữa ban ngày ở ngay nơi công cộng.
Tình trạng buôn người và bóc lột tình dục, trong đó nhiều thiếu nữ vị thành niên bị buộc phải chịu trần truồng đem trưng bày, bán ra nước ngoài như hàng hóa, như súc vật làm nô lệ tình dục để nuôi sống gia đình – một thực trạng sa đọa, vô đạo đức lại được nhà cầm quyền cho phép. Đây thật là nỗi nhục quốc thể. Cùng với nạn tham nhũng, đòi hối lộ trắng trợn của cán bộ và sự đàn áp tàn nhẫn của công an đối với người dân, diễn ra thường xuyên trong đời sống hàng ngày. Riêng bọn đầu lãnh Việt Gian Cộng Sản Hà Nội, sử dụng Hiến pháp năm 2013 của cơ cấu thống trị “chuyên chính vô sản” - Lấy đảng đè dân và hệ thống pháp luật hiện hành chủ yếu chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi của giới lãnh đạo. Trái lại, đi hạn chế quyền tự do ngôn luận, dân chủ và nhân quyền của người dân. Ngay cả các ý kiến bất đồng, dù mang tính xây dựng, hay phổ biến các tư tưởng Tự Do Dân Chủ và tôn trọng Nhân Quyền của các sinh viên, thanh niên yêu nước thuộc tầng lớp trí thức trong nước. Hoặc lời kêu gọi tự do tôn giáo của các tu sĩ đòi hỏi các quyền căn bản theo công pháp quốc tế; cũng đều bị nghiêm cấm và xử phạt một cách nặng nề. Ngoài ra, bọn đầu lãnh Việt Gian Cộng Sản Hà Nội gục mặt làm ngơ không dám can thiệp, không bảo vệ ngư dân Việt Nam trước các hành động bắt giữ và tấn công từ phía Trung Quốc tại vùng biển tranh chấp. Ngược lại, đi đàn áp các cuộc biểu tình yêu nước để phản đối sự xâm phạm chủ quyền lãnh hải. Tuy nhiên, một đôi lần Việt Nam đã lên tiếng phản đối “chiếu lệ” và “nhỏ giọng” yêu cầu Trung Quốc thả tự do cho ngư dân bị bắt giữ tại quần đảo Hoàng Sa, đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại và chấm dứt các hành động vi phạm chủ quyền của Việt Nam.
Nhìn vào sinh hoạt đại chúng hiện nay, mọi người đều nhận thấy: bọn đầu lãnh Việt Gian Cộng Sản Hà Nội đã làm suy thoái văn hóa truyền thống và làm băng hoại đạo đức xã hội. Ngược lại, Việt Nam Cộng Hòa trong quá khứ, luôn đề cao văn hóa qua các giá trị đạo đức bằng môn học “công dân giáo dục”, dậy về lòng hiếu thảo, đạo thầy trò, tình nghĩa vợ chồng và tình bằng hữu. Tuy nhiên, dưới chế độ “chuyên chính vô sản-lấy đảng đè dân” hiện tại, những giá trị đạo đức này bị thay thế bởi sự dối trá và chạy theo vật chất. Người xưa đã nói: “Đất nước bị diệt vong còn có thể phục hưng lại, nhưng văn hóa bị tiêu hủy thì tất cả sẽ bị tiêu diệt”. Vậy mà bọn đầu lãnh Việt Gian Cộng Sản Hà Nội còn tệ hại hơn nữa là cho phép tên giáo gian Bùi Hiền, đòi cải tiến từ ngữ Việt theo âm điệu Tàu với giọng Mandarin; một thứ ngôn ngữ khó học, khó hiểu, âm sắc xa rời lạc lõng với Việt ngữ! Việc thay đổi này sẽ làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc và đã gây ra nhiều tranh cãi cũng như bị phản đối rộng rãi trong xã hội.
Xét về tình hình phát triển kinh tế và chính trị của Việt Nam, mặc dù đất nước đã trải qua thời kỳ thống nhất, hòa bình trong 50 năm, nhưng Việt Nam vẫn tụt hậu về kinh tế so với các quốc gia láng giềng. Nguyên nhân chính là do sự lãnh đạo lầm lạc một cách ngu xuẩn của các đầu lãnh Việt Gian Cộng Sản Hà Nội. Đây mới chính là điều bất hạnh nhất cho đất nước và dân tộc Việt Nam. Ngay cả những tên đầu lãnh của đảng Việt Gian Cộng Sản Hà Nội thời mở cửa và hiện giờ cũng không thể nào phủ nhận: thập niên 1960, Miền Nam Việt Nam (VNCH) đã vượt xa Nam Hàn, Phi Luật Tân, Thái Lan, và Singapore. Qua đó, chúng ta cần cực lực lên án sự tuyên truyền xảo trá của chế độ cộng sản và kêu gọi thế hệ trẻ trong nước hôm nay cần tìm hiểu rõ sự thật lịch sử và tiếp tục sự nghiệp tranh đấu, cần thay đổi nếp suy tư “lề phải”, thoát khỏi sự tẩy não của đảng Việt Gian Cộng Sản Hà Nội đang cầm quyền. Các bạn trẻ ơi! Hãy đánh thức con người phi thường trong bạn mau thức dậy. Hãy kiên trì, bền bỉ hơn nữa giới trẻ Việt Nam trong nước ơi. Hãy kiên quyết vùng lên lãnh đạo toàn dân. Hàng ngày, hãy luôn tâm niệm rằng khi chính bạn chịu thay đổi; thì thế giới quanh bạn sẽ đổi thay. Đồng thời, tôi cũng muốn nhắc đến tinh thần bất khuất của dân tộc Việt qua lịch sử đã 14 lần chiến thắng quân xâm lược Trung Hoa, như một bằng chứng về khí phách và sức mạnh nội lực của toàn dân Việt khi biết đoàn kết. Hãy can đảm đối mặt kẻ thù và tích cực tham gia vào các cải cách chính trị để xây dựng một tương lai tươi sáng hơn cho đất nước.
2)- ANH GIẢI PHÓNG TÔI hay TÔI GIẢI PHÓNG ANH ?
Theo Tự điển định nghĩa thì từ ngữ giải phóng là đem lại sự tự do, dân chủ, hạnh phúc và ấm no cho người dân thoát cảnh nô lệ, nghèo khổ hay áp bức v. v...
Về sự kiện ngày 30/4/1975, hoàn toàn không phải là ngày "giải phóng" gì ráo trọi; mà là "Ngày Quốc Hận" đối với người dân cả hai miền đất nước Việt Nam. Ngày nay thì mọi sự đã tỏ tường rồi. Một điều nữa đáng phỉ nhổ vào mặt bọn đầu lãnh Việt Gian Cộng Sản Hà Nội. Đó là tên Tổng Bí Thư Đỗ Mười (Nguyễn Đức Cống) cũng đã nham nhở tuyên bố: “Giải phóng miền Nam, chúng ta có quyền tịch thu tài sản, trưng dụng nhà cửa, hãng xưởng, ruộng đất chúng nó, xe chúng nó ta đi, vợ chúng nó ta lấy, con chúng nó ta đày bắt làm nô lệ, còn chúng nó thì ta đày đi cải tạo vào chốn rừng sâu nước độc. Chúng nó sẽ chết dần mòn ở đó.” Thật chẳng còn gì nhẫn tâm thâm độc hơn! Chỉ có loài quỷ dữ ở địa ngục mới ác độc đến như vậy! Cho nên sau “Ngày Quốc Hận” 30/4/1975 người Miền Bắc di cư 1954 đã có câu vè: “Miền Bắc có họ, Miền Nam có hàng” khi bọn họ đã “vào vơ vét về” hay nói trắng ra là ăn cướp trắng trợn! Vì thế, biến cố ngày 30/4/975 phải được gọi cho thật đúng tên: "Ngày Quốc Hận". Bởi lẽ cuộc sống của người dân trước năm 1975 dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, nếu đem so với đời sống sau khi Miền Nam bị xâm lược; thì mọi người Việt Nam chân chánh đều thấy tỏ tường rằng trước đó, người dân Miền Nam có cuộc sống ổn định và tự do với đầy đủ nhân quyền. Trong khi ở Miền Bắc, dưới chế độ thống trị tàn ác kiểm tra từ con cá đến lá rau của đảng Việt Gian Cộng Sản Hà Nội. Vì bọn họ vẫn còn đang sống trong thời buổi hồng hoang với viễn tưởng sai lầm và lạc hậu về một thế giới đại đồng - “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. (Sic!) Ngược lại, sau “Ngày Quốc Hận”, người dân Miền Nam phải chịu đựng cảnh tịch thu tài sản, bị đưa đến rừng sâu nước độc: “vùng kinh tế mới” và sống trong điều kiện rất khó khăn, khiến họ trở nên khốn khó cùng cực. Các nhà sử học sau này sẽ lấy lương tâm xét sử để phán định công minh về các chính sách thâm độc và cực kỳ tàn ác của nhà cầm quyền Việt Gian Cộng Sản Hà Nội đã gây ra quá nhiều đau khổ đến thống hận cho người dân Miền Nam.
Ngay sau ngày 30/4/1975, nhà cầm quyền Việt Gian Cộng Sản Hà Nội vẫn cỏn e sợ, sức bật dậy phản công của dân quân Miền Nam; nên đã tiến hành kế sách thâm độc nhằm giam giữ toàn bộ quân nhân và công chức của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa bắt phải đi tù (“Tù mà không tội”. Vì không có một tòa án nào xét xử!) trong các trại tù “cưỡng bức lao động khổ sai - không bản án” (Hard Labor Concentration Camp-without trial) trải dài suốt dọc từ Nam đến Bắc; mà bọn Việt Gian Cộng Sản Hà Nội xảo trá gọi là trại "học tập cải tạo". Mặc dù được đưa lên công báo là chỉ cần mang theo lương thực khô 10 ngày cho sĩ quan cấp Úy và 30 ngày cho sĩ quan cấp Tá trở lên, nhưng thực tế, nhiều người đã bị giam giữ rất lâu; mà không qua xét xử trong nhiều năm, thậm chí lên đến 18-20 năm. Trong các trại tù “cưỡng bức lao động khổ sai - không bản án” (Hard Labor Concentration Camp-without trial)”này. Họ phải lao động khổ sai như đập đá, làm đường, chặt tre về làm chỗ trú ngụ cho mình và cai tù ở mãi tận trong rừng sâu, với điều kiện sống cực kỳ khắc nghiệt và thiếu thốn, dẫn đến nhiều người mắc bệnh và tử vong. Hệ thống trại tù “cưỡng bức lao động khổ sai - không bản án” (Hard Labor Concentration Camp-without trial) này có nhiều điểm tương đồng với các trại cưỡng bức lao động khổ sai Gulag của Liên Sô, được thiết lập nhằm trấn áp và kiểm soát những người bị coi là đối lập chính trị. Trong khi ở Việt Nam thì các trại tù “cưỡng bức lao động khổ sai - không bản án” (Hard Labor Concentration Camp-without trial) này càng khốc liệt hơn và lâu dài gấp 5-7 lần nhiều hơn.
Bên cạnh đấy, bọn đầu lãnh Việt Gian Cộng Sản Hà Nội còn nhẫn tâm thâm độc đầy ải vợ con của dân quân cán cảnh của Miền Nam đến các “vùng kinh tế mới” là nơi rừng thiêng nước độc, thiếu thốn mọi bề về cơm ăn áo mặc, cũng như dụng cụ canh tác và thuốc men căn bản cần yếu khi đau bệnh hay bị thương tật cũng không có bệnh xá ở gần hay y sĩ cấp cứu! Để trả thù đến tận cùng dân, quân, cán, chính, cảnh của Miền Nam. Tài sản lớn nhỏ của người dân Miền Nam đều bị các cán bộ Bắc Việt tịch thu một cách ngang ngược hay cướp cạn thì đúng hơn. Đồng thời, bọn chúng còn cho lệnh cày nát nhiều ngôi mộ của các tử sĩ Miền Nam tại các nghĩa trang khắp nước. Điển hình nhất là tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa. Với nhiều chính sách tàn độc của bọn đầu lãnh Việt Gian Cộng Sản Hà Nội là giam tù để giết lần giết mòn tất cả các dân, quân, cán, chính, cảnh của Việt Nam Cộng Hòa; mà phần lớn là các tinh hoa của đất nước đã được đào tạo từ các đại học danh giá loại Ivy League University trên khắp Âu-Mỹ. Tiếp theo là đánh tư sản mại bản. Đây cũng là một hình thức cướp cạn khác và sau đó là tổ chức vượt biên, mua đường, bán bãi để thu gom vàng lượng và cướp nhà, cướp hãng xưởng, công nghệ lớn nhỏ của người dân Miền Nam. Hệ quả là bọn Việt Gian Cộng Sản Hà Nội đã làm tan nát biết bao gia đình, giết hại rất nhiều nhân tài của đất nước và tạo sự hận thù trùng lấp hết tầng này lên tầng lớp khác giữa người dân và bọn lãnh đạo Việt Gian Cộng Sản Hà Nội ngày càng thêm sâu đậm. Cũng vì hầu hết người dân Miền Nam không chấp nhận chế độ cai trị tàn bạo theo “chuyên chính vô sản” -Lấy đảng đè dân; của bè lũ lưu manh Việt Gian Cộng Sản Hà Nội.
Chúng ta hãy công tâm nhận xét về những thành quả rực rỡ của tầng lớp hậu duệ là con cháu của những người Việt tị nạn cộng sản ở khắp năm châu hiện nay. Bởi vì họ là vàng nên mới lấp lánh ánh quang. Bởi thế, chúng ta cũng đủ rõ bọn đầu lãnh Việt Gian Cộng Sản Hà Nội thật quá ngu xuẩn, đúng là lũ tội đồ của dân tộc Việt. Cho dù bất cứ ai đó có tấm lòng từ bi dùng hết nước Biển Đông cũng không tài nào rửa sạch hết tội lỗi và những sai lầm vô cùng tệ hại của bọn đầu lãnh Việt Gian Cộng Sản Hà Nội này; qua cuộc Cải Cách Ruộng Đất; Trăm Hoa Đua Nở; Rèn Cán Chỉnh Quân; Đổi Tiền; Đánh Tư Sản Mại Bản; Đánh Công Thương Nghiệp; Bỏ Tù Dân Quân, Cán, Chính, Cảnh của Việt Nam Cộng Hòa etc. Chúng ta hãy nhìn lại, sau 30/4/1975 sự việc gì đã xảy ra? Đó là cách đối xử đui mù cuồng si, ngã mạn vô ý thức khi cưỡng chiếm được Miền Nam. Đúng ra, bọn họ chỉ nhờ vào “Chiến Thắng Cho Không” do thỏa thuận ngầm giữa các siêu cường phân vùng chia xẻ quyền lợi. Vì kế sách chính lược (Political Guidelines) hoạch định cho cả 200 năm của người Mỹ là bỏ Miền Nam, bàn giao cho Liên Sô; để Liên Sô chịu nai lưng nuôi báo cô đám cộng sản Việt Nam thời hậu chiến mất mấy năm trời. Bất ngờ, Liên Sô sụp đổ, khiến bọn đầu lãnh Việt Gian Cộng Sản Hà Nội phải tự cứu sống đảng, duy trì và bảo vệ quyền lợi bằng cách cúc cung phủ phục làm con chó ngoan, tên chư hầu hèn hạ của “thiên triều” Trung Cộng cho đến bây giờ. Bọn đầu lãnh Việt Gian Cộng Sản Hà Nội đã phạm tội vô cùng to lớn với dân tộc ta là đã hủy diệt đi rất nhiều tinh hoa của quốc gia là các anh tài, nữ kiệt ở Miền Nam. Vì bọn họ không biết nhìn xa trông rộng; mà chỉ chú tâm vào thù hận; nên không biểu tỏ thái độ hài hòa, nặng tình dân tộc nghĩa đồng bào với dân quân Miền Nam; để sử dụng hết lực lượng nhân tài này, họ biết “kinh bang tế thế” và nằm ngay trong hàng ngũ dân, quân, cán, chính, cảnh của Việt Nam Cộng Hòa.
Sau năm 1975, thay vì việc làm tốt đẹp ích quốc lợi dân đó, ngược lại, nhà cầm quyền Việt Gian Cộng Sản Hà Nội đã áp dụng nhiều chính sách tàn nhẫn với dân, quân, cán, chính, cảnh và đặc biệt là các gia đình quân nhân Miền Nam. Bọn đầu lãnh Cộng Sản này không những chủ trương tổ chức các đợt đánh tư sản, sau đó còn dàn dựng kế hoạch vượt biên; để tiếp tục bóc lột cạn kiệt tài sản, gom vàng, chiếm nhà cửa, công xưởng, xí nghiệp của người dân Miền Nam. Những chính sách tàn độc này gây ra biết bao đau thương sâu sắc, khiến hơn một triệu người Miền Nam phải liều mình vượt biên, vượt biển tìm tự do, “tìm sự sống trong cái chết”, dẫn đến hàng 4-5 trăm ngàn người chết trên biển và tại vùng ba biên giới- Lào-Miên-Thái và đã đánh động lương tâm nhân loại cứu người vượt biển (Boat People) lập trai tỵ nạn khắp Đông Nam Á. Tôi lên án mạnh mẽ các đầu lãnh Việt Gian Cộng Sản Hà Nội là tội đồ dân tộc vì đã hủy diệt tinh hoa miền Nam – những người được đào tạo bài bản, có đầy đủ năng lực đóng góp và giải quyết các vấn nạn (problem solver) cho guồng máy cai trị quốc gia. Đáng tiếc, thay vì hòa giải, nhà cầm quyền Việt Gian Cộng Sản Hà Nội đã phạm sai lầm to lớn: chọn con đường thù hận, bỏ lỡ cơ hội đoàn kết dân tộc. Sau khi Liên Sô sụp đổ, Việt Nam phải gục mặt cúi đầu thần phục “thiên triều” Trung Quốc, trở thành chư hầu, vì không đủ năng lực tự chủ. Đây là bi kịch lớn nhất cho dân tộc Việt Nam.
TẠM KẾT:
Cuộc Chiến Việt Nam (1954-1975) đã diễn ra vô cùng khốc liệt. Nên những người Việt Nam công chính phải nhận thức rõ rằng: “Cuộc chiến Việt Nam không có người thắng; mà chỉ có toàn dân Việt Nam là người bị thua và chịu thiệt thòi nhiều nhất”. Ngày 30/4/1975, sau khi bị Cộng Sản Bắc Việt trắng trợn xâm lược, Việt Nam trải qua nhiều biến động sâu sắc, đặc biệt là tại Miền Nam. Nhưng chính nghĩa quốc gia của Việt Nam Cộng Hòa vẫn luôn mãi sáng ngời. Cho nên, không có một cái tên gọi nào khác có thể thay thế “Ngày Quốc Hận”; bởi nó không nói lên được hết nỗi đau Quốc Hận, cơn Quốc Nạn, nỗi thống khổ của toàn dân trên khắp Việt Nam. Nhà cầm quyền Việt Gian Cộng Sản Hà Nội đã tiến hành các chính sách thâm độc như đưa gần cả triệu người vào các trại tù “lao động khổ sai-không bản án” (Hard Labor Concentration Camp-without trial); mà Việt Gian Cộng Sản Hà Nội ngụy trá gọi là “trại học tập cải tạo" để lừa gạt toàn thế giới. Thực chất là hình thức giam tù và lao động cưỡng bức không qua xét xử. Đồng thời, nhiều gia đình dân thường khá giả, gồm quân, cán, chánh, cảnh của Miền Nam bị ép buộc đi lao động đến các “vùng kinh tế mới” - nơi rừng thiêng nước độc, khí hậu rất khắc nghiệt và thiếu thốn mọi điều kiện sống căn bản y tế khi cấp cứu. Đồng thời, tài sản của người dân miền Nam bị tịch thu hoặc cướp đoạt trắng trợn; các nghĩa trang tử sĩ miền Nam bị phá hoại, đặc biệt là nghĩa trang Biên Hòa, hầu hết bị đào bới.
Chính sách "đánh tư sản" cũng được phát động theo diện rộng khắp Miền Nam, dẫn đến việc tịch thu tài sản và nhà cửa của nhiều người dân miền Nam thuộc tầng lớp trung lưu. Hệ quả là hàng triệu người đã liều mình vượt biển và đường bộ để tìm cuộc sống tự do. Nhất là tạo nên làn sóng "thuyền nhân" lớn nhất trong lịch sử Việt Nam và đánh động lương tâm nhân loại.
Tổng số thương vong trong Chiến tranh Việt Nam ước tính lên đến 3-4 triệu người, bao gồm cả quân và dân hai miền. Cùng với hàng mấy trăm ngàn dân quân cán cảnh hai miền bị tàn phế suốt đời. Trước sự thương vong lớn này, các đầu lãnh đảng Việt Gian Cộng Sản Hà Nội không hề biết xấu hổ: Khi viên đạn bắn vào một người lính dù là cán binh hay lính cộng hòa đi nữa. Thực ra nó đã xuyên vào trái tim của một người Mẹ, một người Cha, một người vợ trẻ và đứa con thơ. Thế thì tại sao lại ăn mừng nhỉ? Nhiều ý kiến cho rằng, nếu sau chiến tranh, Nhà cầm quyền Việt Gian Cộng Sản Hà Nội đã không biết thực hiện chính sách hòa giải và tận dụng khối tinh hoa nhân lực của miền Nam tạo cho cơ hội phát triển đất nước. Nếu biết khôn, Việt Nam có thể đã phát triển mạnh mẽ, vượt bậc hơn để thành con rồng ở Châu Á-Thái Bình Dương từ lâu rồi! Người Việt ở hải ngoại gọi Ngày 30/4 là "Ngày Quốc Hận", tượng trưng cho sự mất mát, đau thương và thống hận của cả dân tộc. Dù đã 50 năm trôi qua, những ký ức và hệ lụy từ sự kiện này vẫn còn in đậm trong tâm trí nhiều người Việt Nam. Cho nên chúng ta nhất quyết hãy biến đau thương thành sức mạnh; nhằm lật đổ bạo quyền Việt Gian Cộng Sản Hà Nội càng sớm càng tốt.
“Ta muốn nói với loài dã thú: Khúc khải hoàn ta sẽ hát thiên thu.” (Thái Dịch - Lý Đông A) */*
Ngô Viết Quyền
(Saint Cloud, Florida) Mùa Quốc Hận thứ 50 (1975-2025)